(HNM) -
Vượt hàng trăm cây số đường rừng đèo dốc, bì bõm qua 3 con suối nước
ngập nửa người... cuối cùng chúng tôi cũng đến được xã Nà Bủng, huyện
Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. Ở cái xã "thâm sơn, cùng cốc" này, sự nghiệp
giáo dục xem chừng còn gian nan lắm. Gần 700 học sinh người dân tộc đang
phải sống trong những căn lều rách nát, bữa ăn hằng ngày chỉ có cơm
chan nước sôi. Vào đêm mưa gió rét, thầy trò co ro tựa vào nhau cho đỡ
giá buốt và cầu mong ngày mai trời nắng ấm...
|
Một lớp học tại huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. |
|
Quang cảnh THCS Nà Khoa, xã Nà Khoa, huyện Mường Nhé. |
|
Trời rét, học sinh đi chân đất và ngồi trong những phòng học tranh tre |
|
Giờ học "xóa mù" ở THCS Nà Khoa: một thày "kèm" một trò. |
|
Phòng họp hội đồng ở THCS Nà Khoa được quây tạm bằng phên nứa, bạt... |
|
Cùng cảnh ngộ với các lớp học, khu nhà ở của giáo viên cũng tạm bợ. |
|
Phòng ở của một thày giáo dạy Văn - Sử THCS Nà Khoa. |
|
Nhà xa, nhiều học sinh THCS Nà Hỳ 2 phải ở trọ trong khu nội trú. |
|
Những khi rảnh rỗi, các em thường đan lưới đánh cá cải thiện bữa ăn. |
Tả tơi nhà bán trú dân nuôiChuyến đi này, xe của nhóm phóng viên Hànộimới phải cài cầu, nhích từng
mét để bò vào địa phận xã Nà Bủng. Đã quá giờ ngọ, Đại úy Phương Công
Quý, Chính trị viên Đồn Biên phòng 413 tỉnh Điện Biên vẫn kiên nhẫn đợi
chờ chúng tôi. Anh nắm tay từng người, giọng chia sẻ: Các anh lặn lội
tới đây, bà con dân bản cảm phục lắm. Nhiều đoàn công tác đến với Nà
Bủng chỉ đi được non nửa chặng đành quay ra vì đường quá xấu, một bên
núi cao, một bên vực sâu, sơ xảy chút có thể tai họa ập xuống. Có đoàn
nhà báo vào đến nơi, phóng viên khóc rấm rứt vì say xe và mệt, thậm chí
có người lả đi, phải truyền nước... Nói rồi, anh Quý khái quát tình
hình: Xã Nà Bủng có 14 thôn bản người dân tộc sinh sống, trong đó có 1
bản người dân tộc Dao, còn lại là người Mông. Toàn xã có 1.032 hộ, 6.832
nhân khẩu nhưng có đến 75% số hộ nghèo đang hưởng chế độ hỗ trợ của Nhà
nước. Giao thông đi lại khó khăn, quãng đường từ xã Nà Bủng ra đến
huyện Mường Nhé chừng 170 cây số nên kinh tế của địa phương chủ yếu tự
cung tự cấp. Là xã vùng cao, chưa có điện lưới quốc gia, bà con có thể
chịu đựng, ăn chưa đủ no, bà con có thể xoay sở qua ngày, nhưng vấn đề
thiếu nước sinh hoạt và chỗ ăn ở cho học sinh dân tộc nội trú thì bức
bách quá rồi.
Để mắt thấy tai nghe, thầy giáo Quách Văn Trung, Hiệu phó Trường THCS Nà
Bủng dẫn chúng tôi đi thăm những căn nhà bán trú dân nuôi. Cả đoàn công
tác sửng sốt vì không ai tin 70 túp lều lụp xụp kia là nơi ở của 600
học sinh người dân tộc bán trú. Cả vạt đồi nhấp nhô chi chít những túp
lều xiêu vẹo, khiến người lạ có cảm giác quạnh hiu. Mỗi lều rộng chừng
20m2, lợp bằng rơm, rạ và lá cây rừng. Bốn vách xung quanh được quây lại
bởi tấm liếp làm từ thân cây luồng, mà thủng lỗ chỗ, chẳng phải nghiêng
ngó cũng nhìn thấu trời xanh. Cứ mỗi lều như thế có từ 8 đến 12 em học
sinh chen chúc nhau ở. Các em ngủ không có giường, màn, chiếu. Tất tật
việc ăn ngủ, đèn sách của cả nhóm ở trên các tấm liếp tre rách nát đặt ở
giữa phòng, kế dưới là bếp củi và đống nồi niêu méo mó.
Thầy Trung rơm rớm nước mắt kể: Nghĩ mà thương các em lắm! Ngày nắng,
nửa buổi học trên lớp, còn nửa buổi các em phải chia nhau xách can nhựa
leo núi để lấy nước về ăn. Ngày mưa thì cơ cực, trong nhà và ngoài trời
chẳng khác gì nhau. Nước mưa dột từ nóc nhà xuống, nền đất nhão nhoét,
bao nhiêu sách vở, chăn chiếu của các em ướt hết. Các thầy, các cô huy
động có bao nhiêu áo mưa, bao tải dứa mang vá chằng vá đụp lên nóc nhà,
mong có chỗ để các em đứng chân mà cũng khó. Mỗi lần như thế, thầy trò
chỉ còn cách đứng co ro, tựa vào nhau mà khóc và cầu mong trời đừng mưa
nữa.
Lực bất tòng tâmÔng Cháng A Gie, Phó Bí thư Đảng ủy xã Nà Bủng buồn rầu cho biết, ngân
sách để xây dựng nhà bán trú cho học sinh chỉ đủ làm một căn nhà 5 gian,
với sức chứa tối đa khoảng 60 học sinh. Đối tượng được vào ở căn nhà
này phần lớn là con em gia đình cực nghèo hoặc bố mẹ mất sớm. Để giải
quyết nơi ở cho 600 em học sinh còn lại, UBND xã, Đồn Biên phòng 413,
nhà trường và các bậc phụ huynh phải dựng gần 70 lán tạm bằng tranh tre
nứa lá. Chúng tôi biết ở tạm bợ trong những lều lán như thế tội cho các
em, nhưng lực bất tòng tâm...
Thấy có khách đến thăm, một cậu bé vội chui ra khỏi lều, mặt mũi đen
thui ám đầy than và khói bếp. Tôi hỏi: Cháu tên gì? Ngần ngừ, sợ sệt,
cậu bé nói tên là Giàng A Lếnh, học sinh lớp 8A3. Lếnh là người dân tộc
Mông, nhà cách trường chừng 26 cây số. Bố mẹ Lếnh đẻ được 9 người con,
chỉ có Lếnh được đi học cái chữ. Hết một tháng, Lếnh lại quốc bộ về nhà
một lần đem theo mấy cân gạo, vài ba mớ rau rừng và bố mẹ cho 10 nghìn
đồng để làm lộ phí. Tôi hỏi tiếp: Thế hằng ngày, Lếnh ăn bằng gì? Cậu bé
lí nhí đáp: Chỉ có cơm chan nước sôi thôi hoặc mèn mén "bột ngô đồ"
thôi, mà có nước sôi để chan là may rồi. Vào mùa khô, chúng cháu phải đi
bộ 5-6 cây số mới lấy được một can nước, có khi đi hết đêm à.
- Vậy đã bao lâu rồi Lếnh chưa được ăn thịt, cá?
Lếnh cười buồn, lắc đầu nói không nhớ. Có cậu phóng viên trẻ nghe vậy,
thương quá, cho các em mấy trăm nghìn đồng, nói chiều đi mua thịt về mà
ăn. Lúc ấy, tôi thấy mấy cô giáo bước vội ra ngoài, lấy vạt áo lau nước
mắt...
Thầy Trung, Hiệu phó Trường THCS Nà Bủng cho chúng tôi biết thêm: Đúng
là bữa ăn hằng ngày của các con chỉ có cơm thôi, rau xanh thì bữa có bữa
không. Theo quy định, các em học sinh dân tộc được miễn toàn bộ tiền
học phí, sách vở. Đối với trường hợp nội trú, các gia đình có con em đi
học phải chủ động lo nơi ăn, chốn ở. Nhiều học sinh của trường rất thông
minh, có chí nhưng rồi đành bỏ học vì nhà quá nghèo, phải theo bố mẹ đi
rẫy. Có không ít học sinh lớp 6, lớp 7 vừa đi học vừa phải địu em,
điều kiện học tập sinh hoạt quá thiếu thốn, nhiều em mắc bệnh hiểm nghèo
nên dù không muốn cũng phải nghỉ.
Ông Phạm Văn Quý, Trạm trưởng Trạm y tế quân dân y kết hợp cho biết,
trạm cũng đã khám chữa cho một số học sinh nội trú nhưng chủ yếu là xử
lý các vết thương phần mềm. Trạm mới thành lập nên phương tiện không có,
toàn bộ thuốc men đều cậy nhờ vào lực lượng biên phòng. Chính vì thế,
những ca bệnh hiểm nghèo cần chẩn đoán, điều trị đều nằm ngoài tầm kiểm
soát của trạm y tế.
Đến Mường Nhé, vào xã Nà Bủng, chúng tôi mới hiểu phần nào sự hy sinh
của những người lính biên phòng, những thầy cô giáo trẻ vùng xuôi đang
gắn kết đời mình gieo cái chữ cho con em đồng bào nơi đây. Trường THCS
Nà Bủng có tất thảy 34 cán bộ giáo viên nhưng chỉ có 8 giáo viên được ở
trong dãy nhà công vụ, số còn lại các thầy, cô phải "tùy nghi di tản".
Vào thăm những căn nhà sập sệ thầy, cô tự làm, chúng tôi nghẹn lại, dâng
trào cảm xúc. Ngoài chiếc giường ọp ẹp vừa là chỗ nằm, vừa là nơi soạn
giáo án, một chiếc thùng đựng đồ cá nhân, phòng của các thầy cô trống
trơn, không còn thứ vật dụng gì khác. Nhiều cô giáo trẻ đã tình nguyện
về với Trường THCS Nà Bủng nhưng rồi chỉ được ngót hai tháng họ phải bỏ
về xuôi, không một lần trở lại nơi này vì cái nghèo khó, khắc nghiệt đeo
bám. Đặc thù giáo dục ở miền núi cũng khác miền xuôi bởi cứ đến mùa thu
hoạch hay lên nương, đa số học sinh phải nghỉ ở nhà giúp bố mẹ. Theo
yêu cầu của Phòng Giáo dục huyện về việc bảo đảm sĩ số lên lớp, các
thầy, cô lại cuống cuồng lội suối, băng rừng đi đến từng nhà vận động
phụ huynh cho con em đi học.
Cô giáo Chu Thị Đoán nói với chúng tôi: Các anh lên đây đi lại thấy vất
vả chứ chúng em quen rồi. Để đến được các điểm trường lẻ, hay mỗi lần
xuống thôn bản, có khi chúng em phải đi bộ mất nửa ngày. Trời nắng chỉ
hơi bụi một chút nhưng trời mưa thì thôi rồi, bùn đất phủ từ đầu đến
chân.
Tập quán sinh hoạt của người Mông gắn với nương, với rừng. Đã qua cái
thời du canh, du cư, nhưng nhà nào nhà nấy chi chít con, cái ăn lo còn
chẳng đủ nói gì đến chuyện sách vở, học hành. Chính vì thế, mỗi lần vận
động thuyết phục được một em học sinh đến trường có khi cô giáo phải
xuống bản tới vài ba lần. Gặp người hiểu thì đỡ, người không hiểu họ xua
thầy, cô như xua tà. Họ vặn vẹo rằng: "Đi học thì có làm ra ngô ra thóc
không? Cái chữ tốt lắm nhưng bao nhiêu cái chữ thì đổi được một con
trâu". Gặp những tình huống ấy, các thầy, cô lại phải nhẹ nhàng thuyết
phục, đồng thời phối hợp với lực lượng biên phòng và chính quyền xã đến
từng nhà vận động, cố lôi kéo các em quay lại trường, nhưng đa phần chỉ
học hết THCS là lại bỏ về với nương rẫy, số học lên nữa của các bản, đếm
được trên đầu ngón tay.
Rời Nà Bủng, ngược chiều với chúng tôi, trên những quãng đường xóc nảy
đom đóm mắt và bụi lầm, đôi ba tốp học sinh bước thấp, bước cao vừa về
nhà để lấy thêm gạo, rau đang quay lại trường. Em thì vắt vẻo bao gạo bé
tí trên vai, em thì mớ cải héo rũ trên tay... Nhìn thấy khách lạ, đám
trẻ toét miệng cười. Những nụ cười trong veo. Có người trong xe nhắc anh
tài phanh lại, đừng đi nhanh làm bụi bọn trẻ. Cũng chỉ thế thôi, chứ
chúng tôi nào giúp được gì cho các em ngoài mong ước đến cháy bỏng rằng
một ngày gần đây có các tổ chức xã hội, các nhà hảo tâm sẽ tìm được
đường đến với Nà Bủng để cùng chung tay góp sức giúp thầy trò nơi đây
vượt qua gian khó.